Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam năm 2019 (28/10/2019)
Chỉ số thương mại điện tử được xây dựng theo các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương dựa trên bốn nhóm tiêu chí lớn. Nhóm thứ nhất là nguồn nhân lực và hạ tầng công nghệ thông tin. Nhóm thứ hai là giao dịch doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C). Nhóm thứ ba là giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B). Nhóm thứ tư là giao dịch giữa chính phủ với doanh nghiệp (G2B). Chỉ số Thương mại điện tử giúp các đối tượng nhanh chóng xác định được mức độ triển khai thương mại điện trên phạm vi cả nước cũng như tại từng địa phương, sự tiến bộ qua các năm và gợi ý cho mỗi địa phương những giải pháp cần thiết để nâng cao ứng dụng thương mại điện tử.
Vào năm 2012, Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) đã tiến hành đánh giá chỉ số thương mại điện tử ở nước ta và liên tục đánh giá cho mỗi năm. Đây là nguồn thông tin tin cậy phản ảnh tình hình hiện tại, những vấn đề nổi bật và xu hướng phát triển của thương mại điện tử cả nước cũng như từng địa phương, góp phần vào việc xây dựng chính sách, pháp luật, quản lý nhà nước và hoạt động kinh doanh. Và mới đây, VECOM đã công bố Báo cáo Chỉ số thương mại điện tử năm 2019.
Theo báo cáo, chỉ số Thương mại điện tử 2019 cho thấy vẫn còn nhiều cản trở cho sự bứt phá trong giai đoạn tới. Những cản trở lớn nhất bao gồm lòng tin của người tiêu dùng vào giao dịch mua bán trực tuyến còn thấp, dịch vụ logistics - giao hàng chặng cuối - hoàn tất đơn hàng còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chênh lệch khoảng cách số giữa các địa phương còn rất cao. Từ kết quả khảo sát hàng nghìn doanh nghiệp tại các địa phương và những thông tin liên quan, Chỉ số Thương mại điện tử 2019 cho chúng ta thấy rõ khoảng cách số giữa các địa phương chưa có dấu hiệu giảm mà thậm chí vẫn tiếp tục tăng.
Trong nhóm nguồn nhân lực và hạ tầng công nghệ thông tin: Qua các năm khảo sát cho thấy đa số doanh nghiệp đều trang bị máy tính PC, laptop và các thiết bị di động để hỗ trợ hoạt động kinh doanh, điều này cũng phản ánh đúng thực trạng và nhu cầu doanh nghiệp trong xu thế ứng dụng công nghệ thông tin. Do đó từ năm 2018, trong bộ câu hỏi khảo sát đã bỏ đi tiêu chí về trang bị thiết bị điện tử hỗ trợ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các tiêu chí được đánh giá cho năm 2019: Sử dụng email và các công cụ hỗ trợ trong công việc; lao động chuyên trách về thương mại điện tử; chi phí mua sắm, trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử.
Nhóm giao dịch doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C): Các tiêu chí như doanh nghiệp xây dựng website (44%) nhỉnh hơn 1% so với năm 2017 và không thay đổi nhiều trong vài năm trở lại đây. Với tiêu chí kinh doanh trên mạng xã hội, năm 2018 vừa qua cũng đánh dấu sự tăng trưởng tốt của mô hình kinh doanh trên các mạng xã hội, có thể thấy đây là hình thức hiệu quả với chi phí thấp đang được nhiều doanh nghiệp lựa chọn mà điển hình là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh và cá nhân.
Tương tự như các mạng xã hội thì tiêu chí về sàn thương mại điện tử cũng là một kênh được coi là hiệu quả với chi phí phù hợp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh và cá nhân. Tuy nhiên mức độ quan tâm cũng như ứng dụng của doanh nghiệp trên các sàn thương mại điện tử trong vài năm trở lại đây cũng chưa có sự tăng trưởng mạnh mẽ, trong số doanh nghiệp tham gia khảo sát thì vẫn giao động từ 11%-13% doanh nghiệp cho biết có kinh doanh qua sàn. Với tiêu chí kinh doanh trên nền tảng di động, chỉ dừng lại ở các doanh nghiệp lớn có quy mô, chiến lược và nguồn lực. Xét về tổng thể chung trong cả nước thì đa số doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ) vẫn chưa thực sự sẵn sàng cho sự thay đổi này.
Tiêu chí về hình thức quảng cáo trên website và ứng dụng di động thi Facebook luôn dẫn đầu là kênh doanh nghiệp tin dùng nhiều nhất (năm 2018 tỷ lệ doanh nghiệp có dùng mạng xã hội để quảng cáo lên tới 49% và tăng 6% so với năm 2017), hình thức thông dụng thứ 2 là các công cụ tìm kiếm (33%) và thông qua tin nhắn/ email quảng cáo (28%).
Nhóm giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B): Xét về nhóm các phần mềm hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh thì kế toán tài chính vẫn là công cụ được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất trong các năm qua. Tiếp đó là nhóm phần mềm về quản lý nhân sự với 56% doanh nghiệp cho biết có sử dụng; tiêu chí về sử dụng chữ ký điện tử và hợp đồng điện tử thì không có sự thay đổi lớn với năm trước và hầu như duy trì tương đối ổn định trong vòng bốn năm trở lại đây. Tuy nhiên, việc sử dụng hợp đồng điện tử có chút giảm nhẹ từ 28% năm 2017 xuống còn 26% năm 2018; tiêu chí nhận đơn đặt hàng qua email tăng 5% so với năm 2017. Tương tự với tiêu chí trên thì tiêu chí về tỷ lệ doanh nghiệp có đặt hàng thông qua các công cụ trực tuyến cũng khá tương đồng với mức độ doanh nghiệp nhận đơn đặt hàng.
Xét về mức đầu tư, xây dựng và vận hành website/ứng dụng di động trên tổng vốn đầu tư thương mại điện tử của doanh nghiệp thì có tới 62% doanh nghiệp năm 2018 tham gia khảo sát cho biết mới đầu tư dưới 20% trong tổng ngân sách đầu tư về thương mại điện tử, 29% doanh nghiệp đã đầu tư từ 20%-50% ngân sách và mới có 9% doanh nghiệp đầu tư trên 50% ngân sách chung của thương mại điện tử. Điều này phản ánh thực trang đa số doanh nghiệp chưa thực sự tập trung vào website/ứng dụng di động. Còn tiêu chí đánh giá hiệu quả của việc bán hàng qua các công cụ trực tuyến hầu như không có thay đổi nhiều so với các năm trước.
Nhóm giao dịch giữa chính phủ với doanh nghiệp (G2B): Tỷ lệ tra cứu thông tin trên website cơ quan nhà nước trong vài năm trở lại đây chưa có sự thay đổi lớn, điều đó phản ánh tính hiệu quả cũng như nhận thức và mức độ tiếp cận đối với hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước trong doanh nghiệp còn chưa thực sự tốt. Trái với việc tra cứu thông tin, tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến liên quan tới các thủ tục đăng ký, cấp phép, khai báo… được cung cấp trên website của các cơ quan nhà nước có phần cao hơn nhiều và đang có xu hướng tăng nhẹ. Đặc biệt, dịch vụ khai báo thuế được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất. Có thể thấy giá trị của các dịch vụ công trực tuyến nói riêng và tổng thể môi trường kinh doanh trực tuyến ở Việt Nam hiện nay khá minh bạch và thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Áp dụng hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm một cách đáng kể những chi phí không chính thức.
Ánh Nguyệt